Dân ca Quan Họ (
còn được gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca quan họ Bắc Giang hay dân ca quan họ Kinh Bắc...) là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam; tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc - tức Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể chính của thể loại dân ca này, Bắc Ninh hay Kinh Bắc được hiểu là tỉnh Bắc Ninh cũ mà ngày 10/10/1995, tỉnh Bắc Giang tách khỏi tỉnh này. Tuy nhiên, loại hình dân ca này chủ yếu phát triển mạnh ở vùng ven sông Cầu, một ranh giới tự nhiên của hai tỉnh. Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi di sản này có thể thay đổi theo thời gian, do các chủ thể văn hóa tạo ra.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO
Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng
10 năm 2009), quan họ đã được công nhận là di sản phi vật thể đại diện
của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.
Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa
đen về mặt từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến
giải về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích
một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc
đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước
để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành
tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt
(nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn,
không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và
giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh
hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn
giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm
nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức
sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian
qua cung đình rồi trở lại với dân gian.
Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu
và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm
những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.
Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận.
Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa "liền
anh" (bên nam, người nam giới hát quan họ) và "liền chị" (bên nữ, người
phụ nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh,
liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ
mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn
ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả
năng ứng biến của hai bên hát.
Quan Họ truyền thồng
Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc,
với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị
phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do
người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ".
Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh
và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan
họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát
hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền
chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.
- "Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn
đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát).
Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi
quan họ" ưa thích đến tận ngày nay như : Hừ La ,La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo.
Quan Họ mới
Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn
(hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng
Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ
mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa CD, DVD
về quan họ ngày nay đều là hình thức quan họ biểu diễn trên sân khấu,
tức quan họ mới. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi
tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau.
Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều
nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới.
Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền
thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan
họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức
và có ý thức.Dù ít hay nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được coi là
cách cải biên không có ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải
biên này. Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời
của bài bản quan họ truyền thống. Loại cải biên này không nhiều, ví dụ
bài "Người ở đừng về" là cải biên từ làn điệu "Chuông vàng gác cửa tam
quan" (Xuân Tứ cải biên).
Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài "Sông Cầu
nước chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống
"Nhất quế nhị lan". Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống
không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ
không còn nữa mà một phần do hoạt động "hát quan họ" ngày nay thường
được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá
quan họ trên diện rộng.
Các làng Quan Họ
Do chậm trễ, có tới 18 làng Quan họ cổ ở Bắc Giang không kịp đưa vào danh sách đề cử. Hiện nay các làng quan họ tồn tại nhiều ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (
còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh),
và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa, Tân Yên (
còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang). Trong phạm vi công nhận chính thức chỉ gồm có 49 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:
- Huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang gồm 5 làng: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ.
- Thị xã Từ Sơn và Tiên Du
gồm 14 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị, Hoàng
Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Ðoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn,
Xóm Hạ Giang - Làng Tam Tảo.
- Huyện Yên Phong
gồm 16 làng: Hữu Chấp, Viêm Xá, Ðẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Ðồng, Xuân Viên,
Thượng Ðồng, Thụ Ninh, Ðặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Ðông
Yên.
- Thành phố Bắc Ninh gồm 14 làng: Làng giấy Châm Khê - Phong Khê
, Đào Xá, Dương Ổ ,Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá,
Yên Mẫn, Yên Thị Trung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa đình, Khả Lễ, Bồ Sơn.
Làn điệu Quan Họ
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam
.
Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất
300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ
là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi
âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát
hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã
bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái
ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý...v..........v........v
Trang phục Quan Họ
|
Mẫu trưng bày bộ trang phục của liền anh và liền chị |
Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục
của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang
phục quan họ.
Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài
tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến
hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương,
the, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn mầu đen,
cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương
hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non,
màu vàng chanh...gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó
nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường
ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.
Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp
với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài
ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn
tay, lược, những "xa xỉ phẩm" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay bằng lụa
hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng
hoặc trong túi trong
.
|
Nón quai thao và dải yếm thắm của liền chị |
Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là
liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng
vào nhau (mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo
mớ ba
. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại
là yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ).
Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là
những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang
phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy,
khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước.
Chất liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài
thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh dán
trong khi áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa
hiên, màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm v.v.
Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà
.
Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên),
xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)...
Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt
múi phía trước cùng với bao và thắt lưng
.
Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se, màu
đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở
trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba
thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng
.
Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt
cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa nhuộm các màu
tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy.
Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm
tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái
.
Liền chị mặc váy váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với
váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa
.
Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không
để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía
trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên
chớm tầm đôi con khoai phía gót chân
.
Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ
công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai
khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm
dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che dấu
đầu các ngón chân
. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.
Bảo tồn Quan Họ
Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan họ được
lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức
truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành
một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau.
Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu
truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban
đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho
Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm
nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.
Từ những năm 70 của Thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc
đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị
bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm
nghệ nhân. Sau khi sàng lọc và lựa chọn, nhạc sỹ, nhà nghiên cứu Hồng
Thao đã ký âm thành bản nhạc, có bổ sung thêm một số ký tự riêng đặc
trưng cho giai điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà
xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã
được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ
cẩn thận. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang chịu trách nhiệm lưu giữ các cuốn băng này cần phải số hóa toàn bộ để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau.
Theo : Wikipedia